Nhạc rap nói riêng là thể loại âm nhạc xuất thân và phát triển ở những khu ghetto ở Hoa Kỳ, là những nơi ở tập trung của những người nghèo, người da màu, nơi thường gắn liền với nhiều tệ nạn xã hội và băng đảng. Có thể coi nhạc rap là thứ âm nhạc giúp những người sống dưới đáy tố cáo thực trạng bất công, phân biệt chủng tộc, v.v. của xã hội Mỹ thời bấy giờ, cũng là cách mà các băng đảng tôn vinh họ lên (những người trong băng đảng thường gọi nhau là homie).
Khác với những dòng nhạc khác, nhạc rap mang trong mình những đặc trưng rất riêng, ở đó những rappers thể hiện kỹ thuật sử dụng câu từ [skill lyric] một cách nhuần nhuyễn (sử dụng compare [so sánh], wordplay [chơi chữ], metaphor [ẩn dụ], multi-rhymes/multi play [vần kép], internal rhymes [vần giữa câu], scheme [trường từ vựng], rhyme scheme [ý đồ gieo vần], angle [góc tiếp cận để tấn công đối phương trong battle/dissing], dark humor [chửi tục ác ý], fact [thông tin khai thác], rebuttal [bẻ gãy ca từ trong battle/dissing],...) hay thể hiện những cách flow (hiểu nôm na là tiết tấu của 1 bài nhạc rap. Với việc kết hợp câu từ, cách gieo vần có những quãng ngắt nghỉ, điểm nhấn trên nền nhạc [beat] hợp lý và sáng tạo) rất riêng của họ. Ngoài ra còn những yếu tố quan trọng khác như concept [nội dung/chủ đề], delivery [sức truyền tải bằng chất giọng qua cách sử dụng flow], quality [chất lượng bài nhạc rap], freestyle [khả năng ứng biến tức thời qua cách rap với nền beat cho sẵn] Ngôn từ trong nhạc rap vô cùng phóng khoáng và không bị gò bó trong một giới hạn nào nên những câu chửi thề xuất hiện trong nhạc rap là chuyện rất bình thường. Bởi những nét đặc trưng trong phong cách của từng rapper, nên đó cũng là cơ sở để họ so bì trình độ rap với nhau, cũng như họ dùng rap để giải quyết những mâu thuẫn với nhau. Từ đó battle rap/dissing (từ lóng tiếng Anh là beef) ra đời và trở thành một đặc điểm thú vị ở nhạc rap mà không có dòng nhạc nào có được.